Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là một loại giấy tờ hộ tịch, do cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền cấp theo yêu cầu của công dân nhằm chứng minh tình trạng hôn nhân để làm thủ tục đăng ký kết hôn hoặc thực hiện các giao dịch dân sự, thực hiện các thủ tục hành chính khác. Thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (giấy XNTTHN) theo quy định của Luật Hộ tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.
QUY ĐỊNH VỀ GIẤY XÁC NHẬN TÌNH TRẠNG HÔN NHÂN
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là một loại giấy tờ hộ tịch, do cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền cấp theo yêu cầu của công dân nhằm chứng minh tình trạng hôn nhân để làm thủ tục đăng ký kết hôn hoặc thực hiện các giao dịch dân sự, thực hiện các thủ tục hành chính khác. Thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (giấy XNTTHN) theo quy định của Luật Hộ tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.
1. Những điểm mới thuận lợi cho người dân của pháp luật hiện hành về cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
Thứ nhất, thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được quy định tập trung, phân định rõ thẩm quyền của cơ quan đăng ký hộ tịch trong và ngoài nước.
Theo quy định của Luật Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành, thẩm quyền cấp giấy XNTTHN cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi công dân thường trú; trong trường hợp công dân Việt Nam không có nơi thường trú thì thẩm quyền cấp giấy XNTTHN thuộc UBND cấp xã nơi người đó đăng ký tạm trú. Đối với công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có yêu cầu cấp giấy XNTTHN thì thẩm quyền thuộc cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Như vậy, công dân Việt Nam cư trú ở trong nước/nước ngoài, ra nước ngoài cư trú/đã cư trú ở nước ngoài về Việt Nam đều có quyền yêu cầu XNTTHN. Việc cấp giấy XNTTHN tùy thuộc theo nơi cư trú và thời gian cư trú thực tế của công dân.
Thứ hai, phạm vi cấp giấy XNTTHN được mở rộng hơn
Nếu như trước đây, theo quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch và Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP thì chỉ trong trường hợp người có yêu cầu cấp chưa bao giờ kết hôn hoặc có kết hôn nhưng đã ly hôn/góa vợ/góa chồng, tức là tại thời điểm đề nghị cấp giấy XNTTHN phải là người không có vợ/không có chồng thì mới được cấp giấy XNTTHN - thực chất chỉ là giấy xác nhận độc thân, dẫn đến nhiều trường hợp yêu cầu được xác nhận tình trạng hôn nhân trước khi kết hôn hoặc XNTTHN nhân theo từng giai đoạn để chứng minh quyền sở hữu tài sản, hoàn tất thủ tục mua bán nhà, đất... đều không có cơ sở để giải quyết. Giấy XNTTHN theo quy định của Nghị định số 123/2015/NĐ-CP được cấp đúng với tình trạng hôn nhân thực tế của người yêu cầu, theo bất kỳ khoảng thời gian nào mà người yêu cầu đưa ra, không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân hiện tại, không phụ thuộc vào việc người đó đã kết hôn hay chưa. Quy định này cũng bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc cấp giấy XNTTHN cho người đã qua nhiều nơi thường trú khác nhau (với điều kiện người có yêu cầu phải có giấy tờ chứng minh về nơi cư trú). Do đó, việc cấp giấy XNTTHN sẽ phù hợp theo đúng tên gọi của giấy tờ, xác nhận cho tất cả các trường hợp: Chưa đăng ký kết hôn; đang có vợ/chồng; có đăng ký kết hôn nhưng đã ly hôn; có đăng ký kết hôn nhưng vợ/chồng đã chết…
Thứ ba, chặt chẽ trong trình tự giải quyết, nhưng vẫn bảo đảm cải cách thủ tục, không gây phiền hà cho người dân
Đối với trường hợp người yêu cầu cấp giấy XNTTHN đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, trước hết, người đó phải có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình; trường hợp người có yêu cầu không tự chứng minh được thì UBND cấp xã không được buộc người dân phải trở về nơi thường trú trước đây để làm thủ tục cấp giấy XNTTHN, mà có trách nhiệm chủ động gửi văn bản đề nghị UBND cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú phối hợp kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó trong thời gian cư trú trước đây. Trường hợp quá thời hạn mà không nhận được văn bản trả lời kết quả xác minh thì người có yêu cầu cấp giấy XNTTHN phải lập văn bản cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình. Bên cạnh đó, trước đây, theo quy định của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, trình tự, thủ tục cấp giấy XNTTHN để sử dụng ở trong nước và kết hôn ở nước ngoài là khác nhau, dễ dẫn đến nhầm lẫn, thậm chí bị lợi dụng để trục lợi. Do đó, để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, tránh gây phiền hà, nhầm lẫn, thiếu thống nhất, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định trình tự, thủ tục cấp giấy XNTTHN áp dụng chung cho mọi trường hợp, UBND cấp xã quyết định việc cấp giấy XNTTHN mà không phải xin ý kiến cơ quan quản lý cấp trên như trước đây./.